Bạch Ma Tử nê cũng là loại đất sét tử sa độc nhất vô nhị ở Hoàng Long Sơn. Quặng ban đầu chủ yếu được sản xuất ở khu vực khai thác Hoàng Long Sơn ở Đinh Thục trấn, và nó cũng được sản xuất ở các mỏ xung quanh thị trấn Đinh Thục trấn. Quặng đất sét nguyên thuỷ của Bạch ma tử mỏ Hoàng Long Sơn gần giống với quặng của đất sét của Đoạn nê. Nó cũng thường được khai thác dưới lớp sa thạch thạch anh ở phần trên của mỏ và ở phần trên của mạch khoáng Tử nê (Hình 6-27 và 6-28). Sự xuất hiện của các mỏ khoáng khác xung quanh cũng gần tương tự (Hình 6-29), đây cũng là mỏ cộng sinh giữa đoạn nê và Tử nê.

Mỏ bạch ma tử ngoại sơn
Thành phần khoáng vật của Bạch ma tử nê chủ yếu là hydromica, một phần kaolinit, mảnh thạch anh, một lượng nhỏ zircon, mảnh cacbua canxi và ferit. Thành phần hóa học và hàm lượng phần trăm của nó là: sillic dioxide (SiO2) 63,38%, oxit nhôm (Al2O3) 23,70%, oxit sắt (Fe2O3) 5,83%, oxit sắt (FeO) 0,92%, titan oxit (TiO2) 0,98%, magie oxit (MgO) 0,38%, canxi oxit (CaO) 0,53%, kali oxit (K2O) 1,72%, natri oxit (Na2O) 0,01%, Oxit lưu huỳnh (SO2) 0,014%. Bạch ma tử nê có chất lượng bùn mịn, có sự kết hợp hợp lý giữa hạt thô và hạt mịn, dẻo tốt, có khả năng tạo hình, chỉ số dẻo 8,98%, giới hạn lỏng 21,08%, giới hạn dẻo 12,10%.

Khoáng bạch ma tử Hoàng Long Sơn

Khoáng bạch ma tử ngoại sơn
Hàm lượng silicat, oxit nhôm và oxit sắt trong Bạch ma tử nê đều cao, nhiệt độ thiêu kết của nó có thể gần 1300℃ và nhiệt độ thiêu kết thông thường là 1250℃.
Khoảng nhiệt độ thiêu kết thường nhỏ, không quá 30oC~ 40oC, nếu khoảng nhiệt độ thiêu kết quá cao rất dễ gây ra hiện tượng “sốc nhiệt”.
– 1000 ℃, màu đỏ thịt, mặt cắt ngang là dạng hạt thô, xỉn màu.
– 1100 ℃, màu vàng nhạt và hơi xám, mặt cắt là hạt thô, các đốm nâu phân bố dày đặc trên bề mặt, mặt cắt dày đặc và âm thanh giòn;
– 1150 ℃ C, màu vàng sẫm và hơi xám, mặt cắt thô và dạng hạt, các đốm nâu phân bố dày đặc trên bề mặt, mặt cắt dày đặc và âm thanh giòn;
– 1200 ℃, màu vàng sẫm với các hạt nhỏ màu nâu, đen phân bố đều, dày đặc và sắc nét;
– 1250 ℃, nâu và vàng Các hạt màu nâu, đen, phân bố đều, với một lượng nhỏ các hang sắt phân bố đều trên bề mặt, đặc và sắc nét;
– 1300 ℃, nâu- Các hang màu vàng, nâu sẫm phân bố dày đặc trên bề mặt, đường kính các hang thay đổi từ 0,5 – 0,1, hơi biến dạng, có ánh kim loại.
Tỷ lệ co sau khi sấy và nung là 11%.
(Tháng 1 năm 1965 “Báo cáo đánh giá khảo sát đất sét gốm núi Hoàng Long ở huyện Nghi Hưng, tỉnh Giang Tô”, Đội địa chất thứ sáu của Cục địa chất Giang Tô)
SG, 22/07/2021
Người dịch: Lão Tà – An Nhiên Tịnh Quán
(dịch từ “Dương Tiện minh sa thổ” – Lưu Ngọc Lâm)